Với " ", nói người Việt tự kéo chậm bước tiến văn minh cũng không hề ngoa ngôn. Sự thật là xe máy đã tác động xấu đến tuốt tuột nền kinh tế, văn hóa, quy hoạch thành thị, nếp, đạo đức, cách sống của người dân Việt Nam chứ không chỉ còn là vấn đề về an toàn giao thông.
Xe máy, đối với nhiều nhà nước, được coi là một dụng cụ liên lạc nguy hiểm, không khuyến khích dùng, thậm chí bị cấm ở nhiều thành thị. Với vận tốc có thể bằng ôtô, nhưng sự an toàn lại chỉ như xe đạp, nó thực sự là một hung thần trên đường.
Tai nạn hàng ngày hàng giờ xảy ra trên khắp các nẻo đường Việt Nam đã chứng minh điều đó. Theo thống kê chưa đầy đủ thì bình quân một năm Việt Nam có khoảng 12.000 người chết vì tai nạn liên lạc, chưa kể rất nhiều người bị thương dẫn đến tàn tật trong đó 90% tai nạn từ đường bộ và 70% tai nạn đường bộ là giữa xe máy với xe máy và giữa xe máy với ôtô. Đặc thù giao thông hỗn hợp với nhiều phương tiện đi xen kẽ nhau nên bất lợi luôn thuộc về xe máy. Những cái chết thương tâm mà khi xảy ra thường không còn nguyên vẹn, nó giống như những cỗ máy xay thịt chẳng những làm đau những người đã mất mà còn xoáy vào tim gan của những đứa ở lại .
không thể phủ nhận, xe máy, nếu xét trên giác độ tiện dụng, cơ động, linh hoạt, thì sẽ là công cụ liên lạc không có đối thủ cạnh tranh. Nhưng hãy cùng nhau phân tách trên nhiều khía cạnh khác.
Quy hoạch và xe máy
Chính phủ nghe đâu bế tắc trong việc quy hoạch tỉnh thành. Hiện, hạ tầng kiến trúc lôm côm, nhà ống mọc lên như nấm không có cách gì khống chế. Những ngõ sâu tun hút ngoằn ngoèo chen chúc với những chợ tạm, chợ cóc chật chội bẩn thỉu. Hàng quán thi nhau đua nở xâm lấn lòng thềm. Nét đẹp thành phố của những con phố sạch sẽ thanh quang với những hàng xe hơi, xe bus thứ tự nối đuôi nhau là một viễn tượng xa vời đối với các thị thành Việt Nam.
Vì sao vậy - căn do đến từ xe máy. Chỉ xe máy mới có thể luồn lách đến mọi ngóc ngách, dẫn đến việc khuyến khích người dân làm nhà trong ngõ mà không cần tuân quy hoạch theo tiêu chuẩn chung. Thậm chí có những ngõ nhỏ tới nỗi chỉ đảm bảo cho một chiều lưu thông vẫn tồn tại như một minh chứng cho sự thuận tiện không gì thay thế được của xe máy.
Chỉ có xe máy mới có thể tùy tiện tấp vào lề đường để chủ nhân vẫn ngồi trên yên, một chân chống xuống đất, thoải mái mặc cả mớ rau, con cá cho kịp bữa cơm chiều. Xe máy đã vô hình tạo điều kiện cho sự tồn tại của chợ tự phát, mặc cho cơ quan chức năng ra công dẹp hàng ngày. Chỉ có xe máy mới dễ dàng dựng nhan nhản ngay trên hò để mua bán thảo luận hàng hóa, chiếm hết chỗ dành cho người đi bộ. Và như vậy, xe máy trở nên rào cản cho quy hoạch thành phố đương đại ở Việt Nam.
Phải đi xe máy trong những sáng mùa đông lạnh cắt da thịt ở miền Bắc, hoặc trong những cơn mưa trút nước dầm dề, hay những trưa hè nóng đổ mồ hôi ở Sài Gòn, giữa biển xe máy san sát chen vai thích cánh, khói độc tỏa mờ mịt, âm thanh đinh tai nhức óc, mới thấy hết sự khổ sở mà ai cũng phải chịu đựng. Điều đó tác động dần dần làm cho con người mất đi sự cảm thông lẫn nhau. Và khi ngồi trên xe máy nam chẳng thể lịch duyệt, nữ không thể dịu dàng.
Trên đường, những khuân mặt hồ hởi tươi sáng hiếm dần, thay vào đó là sự cau có, bẳn gắt. Chỉ cần va quệt nhẹ là người với người sẵn sàng lao vào nhau sống mái. Không thiếu những vụ ẩu đả, thậm chí giết người phát xuất từ những duyên do rất nhỏ.
Khi ngồi trên xe máy, những người đàn ông chẳng thể lịch duyệt trong bộ complet, nữ giới khó mà váy đầm dịu dàng thanh lịch. Mặc đẹp làm gì khi mà đằng nào cũng phải trùm bên ngoài chiếc áo chống nắng dài tới gót chân. Mái tóc uốn rập rình mà làm gì khi phải đội lên đầu những "nồi cơm điện" nặng nề cục mịch.
Điều này tưởng không quan trọng, nhưng lại can hệ khá nhiều đến văn hóa xử sự. Thật dễ hiểu. Nếu mọi người ai cũng ăn mặc đàng hoàng, lịch sự thì đối xử với nhau hẳn sẽ lịch sự, tử tế hơn.
lề thói và lối sống
Điều đáng lo ngại nhất là tư duy xe máy đã ăn sâu vào tâm lý của người Việt. phần đông người dân chẳng thể hình dong họ sẽ sinh hoạt như thế nào nếu thiếu xe máy. Một sự lệ thuộc hoàn toàn.
Thậm chí chỉ cách 100 m họ đã phải cần đến xe máy. Việc vào siêu thị mua thực phẩm sạch trở nên vô lý khi mà chỉ cần ngồi lên xe máy, phóng vèo ra chợ cóc đầu đường là có thể mua bất kỳ loại thực phẩm gì.
Cũng chính vì sự thuận tiện nhãn tiền của xe máy mà mọi người mất dần thói quen đi bộ. Không có cảnh đoàn người sải bước trên lề đường với tác phong công nghiệp hiện đại như ở các quốc gia khác. Vì thật "đáng tiếc" là ở Việt Nam xe máy có thể phóng vào tận cổng cơ quan.
Cũng không ở đâu có nghịch lý như Việt Nam khi coi chiếc xe máy không chỉ đơn thuần là dụng cụ liên lạc, mà trở thành của để dành, thậm chí là cứ để phân biệt thứ hạng xã hội. Từ đó đẩy tới một nghịch lý tiếp theo là giá một chiếc xe máy SH chả hạn, có thể đắt gần bằng một chiếc xe hơi loại làng nhàng tại các nước trong khu vực.
Việc thả nổi cho thị trường xe máy cũng đồng thời khiến cho nền công nghiệp ôtô chẳng thể phát triển. Dẫn đến một nghịch lý khó có thể hài lòng được nữa là, giá ôtô gần như đắt nhất thế giới tại một nhà nước nghèo.
Chỉ có xe máy mới dễ dàng bỏ qua đèn đỏ, luồn lách, vượt làn, phóng nhanh, vượt ẩu... Điều tệ hại là, sự vi phạm liên lạc công cộng của xe máy diễn ra quá thẳng, lâu ngày thói xấu thành quen thuộc đối với hết thảy mọi người. Như vậy, xe máy góp phần đẩy nhanh sự xuống cấp về ý thức an toàn liên lạc vốn đã quá kém của người dân Việt Nam.
Độc giả Tiên Phong